HỌC PHẬT SAO CHO ĐÚNG?

(Những chia sẻ từ TT. Giác Nguyên)

Khi học Phật, học Pháp, để đi đúng hướng và gặt hái được lợi ích thiết thực, chúng ta cần chú trọng 3 điều quan trọng sau:


1. Khi Học Phật, Cần Chú Trọng 3 Điều:

  1. Tìm mối quan hệ giữa 3 Tạng Kinh điển: Lời Phật chỉ có một dòng chảy, một tinh thần duy nhất. Nếu học mà không thấy sự liên kết, thậm chí thấy tạng này mâu thuẫn, bài xích tạng kia, đó là học sai. Đặc biệt, phải tìm hiểu quan hệ chặt chẽ giữa A Tỳ Đàm (Vi Diệu Pháp)Kinh Tạng. Nếu không có căn bản A Tỳ Đàm thì khó hiểu thấu đáo Kinh Tạng.
  2. Tìm sự liên kết giữa Lý thuyết và Thực hành: Phải thấy rõ mối tương quan mật thiết giữa nhận thức (cái học) và hành trì (cái hành). Nếu học mà thấy lý thuyết tách rời thực tế, muốn buông lúc nào thì buông, không thấy cần phải áp dụng, đó là học sai.
  3. Thấy được ý nghĩa Ứng dụng và Sự Chuyển hóa: Học đạo mà thấy được cách ứng dụng vào đời sống, mang lại sự an lạc, đó là học đúng. Còn học theo kiểu tích lũy kiến thức như học toán, lý, hóa; nhét cho đầy đầu mà không cải hóa được phiền não, không chuyển hóa được bản thân… thì đó là học sai.

2. Khi Tin Phật Thì Phải Tin Rằng:

  • Thân người khó được.
  • Chánh pháp khó gặp.

Lý do:

  • Trong một ngày, thời gian chúng ta sống với tâm hồn con người (tâm thiện) không nhiều, mà thời gian sống với tâm hồn sa đọa (tâm bất thiện) thì lại chiếm đa số.
  • Vì tâm bất thiện dẫn dắt, nên kết quả là thân người khó được → người lành khó gặp → việc thiện khó làm → người thiện khó kiếm → việc gặp được Phật, Pháp, Tăng lại càng hiếm hoi hơn nữa.
  • Do đó, khi mình may mắn được mang thân người và lại được gặp Phật pháp, nhưng lại thờ ơ, mù tịt về giáo pháp thì thật vô cùng uổng phí.

3. Vai Trò Của Trí Tuệ Trong Công Đức:

Theo A Tỳ Đàm, công đức được thực hiện có trí tuệ đi kèm thì phước báu đó mới thực sự lớn lao và vững chắc.

Các Loại Trí Tuệ:

  • Trí Văn (Sutamaya Paññā): Trí tuệ có được từ việc nghe, đọc, học hỏi từ người khác (thầy cô, sách vở…).
  • Trí Tư (Cintāmaya Paññā): Trí tuệ có được từ sự suy ngẫm, thấm thía, tư duy, suy luận logic dựa trên những kiến thức đã học (văn).
  • Trí Tu (Bhāvanāmaya Paññā): Trí tuệ có được từ sự hiểu biết thực chứng, trực tiếp thông qua việc thực hành thiền định (Samatha)thiền tuệ (Vipassanā).

Tại sao Trí Tu phải dựa trên Thiền Định & Thiền Tuệ?

  • Thiền định: Muốn đắc Sơ Thiền là phải tạm thời chế ngự 5 triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo hối, hoài nghi). Khi đắc các tầng thiền, hành giả mới có khả năng thấy biết những điều mà người không có thiền định không thể thấy.
  • Thiền tuệ: Khi học Phật pháp (đặc biệt A Tỳ đàm) và ứng dụng vào thực hành (ví dụ Tứ Niệm Xứ), hành giả sẽ thấy rõ bản chất, cấu trúc, sự vận hành của thân và tâm này. Khi hiểu rõ chính mình, sẽ hiểu được chúng sanh khác và xa hơn là hiểu được cách vũ trụ vận hành.

=> Tùy thuộc vào mức độ Văn, Tư, Tu của mình nhiều hay ít, sâu cạn rộng hẹp thế nào mà công đức và sự hiểu biết của mình sẽ khác nhau.


4. Niềm Tin Thuần Túy vs. Niềm Tin Dựa Trên Hiểu Biết:

  • Nếu đến với đạo bằng thuần túy niềm tin (nghe người khác nói, tin theo cảm tính), thì mai này niềm tin đó dễ bị lung lay khi gặp thử thách, khó khăn, và mình có thể buông đạo ngay.
  • Còn đến với đạo bằng nhận thức, hiểu biết (có Văn, có Tư, có Tu), thì niềm tin đó rất vững chắc. Thì mai này trời có sập xuống mình vẫn cứ thờ Phật, thờ Pháp.

5. Học Phật Đúng Cách Là Để Giải Thoát:

  • Học Phật cho đúng là không bị giam hãm trong định kiến, trong những quan niệm sẵn có.
  • Học Phật là để vượt thoát khỏi cảnh giới, trình độ hiện tại của bản thân về nhận thức và tâm linh.

Cái nguy hiểm nhất của thế giới phàm phu là “đụng đâu dính đó”. Sinh ra, lớn lên trong môi trường, hoàn cảnh nào thì thường bị giam hãm, dính mắc, vướng kẹt trong đó (về tư tưởng, quan niệm, thói quen…), mà không nhận ra đó chính là nhà tù của mình.

Do đó, cần phải học giáo lý. Học để tự tháo cởi, tự giải thoát, tự khai phóng bản thân mình khỏi những trói buộc vô hình đó.

Đây chính là lý do cốt lõi mà chúng ta phải tìm đến Phật pháp.